Lĩnh vực xây dựng, kiểm tra và theo dõi thi hành pháp luật

Display portlet menu
end portlet menu bar

  • 1. Tình huống
    Ông Nguyễn Văn A xây dựng công trình nhà ở trên diện tích đất 100 m2, đã chuyển mục đích sử dụng 50 m2; chưa chuyển mục đích sử dụng đấ 50 m2; khi xây dựng không có giấy phép.
    2. Kết quả xử lý
    Cán bộ địa chính phát hiện xây dựng không phép nên lập biên bản vi phạm hành chính, yêu cầu dừng thi công theo mẫu tại Thông tư 02/2014/TT-BXD, ban hành quyết định đình chỉ và quyết định xử phạt, cho 60 ngày xin phép.
    Cơ quan Thanh tra cho rằng việc xử lý như nêu trên không đúng quy định, do phù hợp đất ở nên phải lập theo Mẫu 01 của Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
    Vấn đề đặt ra là: Việc lập biên bản lĩnh vực xây dựng theo Mẫu 01 của Nghị định 81/2013/NĐ-CP có đúng không? Khi trong cùng một hành vi xây dựng trên, ông A có 50m2 thổ cư, xây dựng 50m2 chưa chuyển mục đích sự dụng.
    Quan điểm Cơ quan Thanh tra yêu cầu phải lập theo lỗi tự ý chuyển mục đích từ đất nông nghiệp sang đất ở theo Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, như vậy có đúng không?
    3. Quan điểm nhận thức về áp dụng phap luật lập biên bản vi phạm
    Việc áp dụng biểu mẫu trong lập biên bản vi phạm hành chính, tại Điều 2 Thông tư 02/2014/TT-BXD ngày 12/2/2014 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 121/2013/NĐ-CP có quy định về việc lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc tháo dỡ công trình, bộ phận công trình xây dựng vi phạm, cụ thể như sau:
    “Khi phát hiện hành vi vi phạm, người có thẩm quyền quy định tại Điều 59 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP có trách nhiệm lập biên bản như sau: Hành vi vi phạm đang được thực hiện thì lập biên bản theo Mẫu biên bản số 01, hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc thì lập biên bản theo Mẫu biên bản số 02 ban hành kèm theo Thông tư này”.
    Ngoài ra, tại Điều 10 Thông tư 02/2014/TT-BXD có quy định: “Những biểu mẫu khác trong xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP”.
    Trường hợp vi phạm nêu trên nếu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 10, Điều 13 Nghị định 121/2013/NĐ-CP và Khoản 1, Điều 2 Thông tư 02/2014/TT-BXD thì người có thẩm quyền lập biên bản theo Mẫu số 01 tại Phụ lục của Thông tư 02/2014/TT-BXD; trường hợp nếu thuộc trường hợp khác thì áp dụng theo biểu mẫu quy định tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP.
    Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP trong đó quy định một số biểu mẫu trong xử lý vi phạm hành chính thay thế cho biểu mẫu trong Nghị định số 81/2013/NĐ-CP nên cần nghiên cứu để áp dụng cho phù hợp.
    4. Quan điểm nhận thức về áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm
    Về việc lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi phạm khác có liên quan, Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính quy định như sau: “Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”.
    Trường hợp, nêu trên đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 102/2014/NĐ-CP thì người có thẩm quyền tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định.
    Trường hợp vụ việc vi phạm vừa có hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản vừa có hành vi không thuộc thẩm quyền xử phạt hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì áp dụng theo quy định tại Khoản 7, Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP:
    Trường hợp vụ việc vi phạm vừa có hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản, vừa có hành vi vi phạm không thuộc thẩm quyền xử phạt hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản, thì người đó vẫn phải tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với tất cả các hành vi vi phạm và chuyển ngay biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt theo quy định tại Khoản 3, Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính”.


    Phạm Quốc Sử
    Bài viết trao đổi nghiệp vụ, mang tính tuyên truyền, phổ biến pháp luật


     

  • điểm c, d và đ Khoản 2 Điều 4 của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định về đối tượng, thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn còn bất cập. Trong thời gian 06 tháng có ít nhất 02 lần vi phạm bị xử lý vi phạm hành chính mới có thể áp dụng biện pháp này nhưng Nghị định lại không nêu cụ thể số lượng vi phạm tại địa phương đối tượng cư trú hay nơi khác, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.

    Trường hợp bao gồm cả số lượng hành vi vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính tại nơi khác nhưng Nghị định không quy định điều khoản bắt buộc cơ quan, cá nhân xử phạt vi phạm hành chính phải có trách nhiệm gửi hồ sơ xử phạt về địa phương mà người vi phạm cư trú để theo dõi, quản lý dẫn đến một số trường hợp, khi đối tượng bị địa phương phát hiện xử phạt vi phạm hành chính lần đầu nhưng đối tượng có thể đã vi phạm trước đó ở địa bàn khác; hoặc đối tượng có cư trú tại địa phương nhưng thường xuyên lang thang, vắng mặt, ít vi phạm tại địa phương nhưng lại vi phạm nhiều tại địa bàn khác trong khi đó Nghị định lại chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các địa phương nên gây không ít khó khăn trong quá trình xác minh và xử lý.

    Hiện nay, Nghị định 56/2016/NĐ-CP mới ban hành nhằm khắc phục những bất cập trên của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn quy định tại Điều 90 Luật xử lý vi phạm hành chính và thời hiệu áp dụng đối với các đối tượng này được xác định như sau:

    Thứ nhất, Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong thời hạn 6 tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà lại tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm nêu trên đến lần thứ ba nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm này, thì thời hiệu là 6 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm hành chính nêu trên.

    Thứ hai, Đối tượng là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, thì thời hiệu là 03 tháng, kể từ ngày đối tượng có hành vi sử dụng ma túy bị phát hiện.

    Thứ ba, Người nghiện ma túy đang tham gia chương trình cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật mà bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy thì cũng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với đối tượng này được tiến hành đồng thời với việc cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế;

    Thứ tư, Đối tượng là người từ đủ 18 tuổi trở lên, trong thời hạn 6 tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi xâm phạm tài sản của cơ quan, tổ chứ; tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân hoặc người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội mà lại tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm nêu trên đến lần thứ ba nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm này, thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong những hành vi phạm hành chính nêu trên.

    Thay đổi, sử dụng dữ liệu của chúng tôi, một trong những thứ khác nhau, một cách an toàn. hôn minh chỉ có thể và khác nhau. Hợp lý của chúng tôi là một trong những thứ khác nhau. Tình trạng phức tạp, toàn bộ, thời gian, văn hóa, văn hóa, văn hóa, văn hóa ...

    Phạm Quốc Bằng
    Bài Viết, trao đổi, mặc quần áo, mang đến

  • 1. Tình huống giả định theo thực tiễn
    Trường hợp một Doanh nghiệp nộp hồ sơ khai thuế tháng trễ hạn nhiều kỳ năm 2017, 2018. Đến ngày 19/9/2019, cơ quan chức năng lập biên bản vi phạm hành chính các hành vi của doanh nghiệp này và xử phạt cho hồ sơ khai thuế từng kỳ, có tình tiết tăng nặng do vi phạm nhiều lần.
    Cơ quan xử phạt cộng tất cả số tiền phạt thành tổng số tiền phạt phải nộp. Việc xử phạt này cơ quan chức năng tính là trường hợp chậm nộp (không cùng thời điểm) nhiều hồ sơ khai thuế của nhiều kỳ tính thuế cùng một sắc thuế nhưng chưa bị xử phạt thì bị xử phạt từng hành vi vi phạm (có thêm tình tiết tăng nặng).
    Doanh nghiệp cho rằng, việc áp dụng pháp luật của cơ quan chức năng trong trường hợp này chưa đúng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Vi phạm hành chính nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý”. Và cho rằng: Tất cả các vi phạm nêu trên chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính có tình tiết tăng nặng là vi phạm nhiều lần, chỉ xử phạt một số tiền, chứ không cắt khúc ra thành nhiều hành vi do vi phạm những giai đoạn khác nhau trước đó và đề nghị cơ quan chức năng xác định thực hiện như thế nào là đúng theo Luật Xử lý vi phạm hành chính.
    2. Về căn cứ pháp luật
    Khoản 5, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Vi phạm hành chính nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hạn hiệu lực xử lý”.
    Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thủ tục thuế là 2 năm.
    Khoản 1, Điều 2 Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế cũng quy định: “Đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế, thời hiệu xử phạt là 2 năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện đến ngày ra quyết định xử phạt. Ngày thực hiện hành vi vi phạm hành chính về thuế là ngày kế tiếp ngày kết thúc thời hạn phải thực hiện thủ tục về thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế. Đối với trường hợp làm thủ tục về thuế bằng điện tử thì ngày thực hiện hành vi vi phạm hành chính về thuế là ngày kế tiếp ngày kết thúc thời hạn làm thủ tục theo quy định của cơ quan có thẩm quyền”. Căn cứ các quy định pháp luật nêu trên, đối chiếu với vụ việc được nêu, thấy rằng:
    Thứ nhất, tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm quyền phát hiện ra doanh nghiệp đã thực hiện nhiều lần cùng một hành vi “chậm nộp hồ sơ khai thuế so với thời hạn quy định” quy định tại Điều 7 Nghị định số 129/2013/NĐ-CP.
    Thứ hai, tất cả các hành vi này đều đã được thực hiện xong (không có hành vi nào đang được thực hiện), tại các điểm khác nhau và đều chưa bị xử lý, chưa hết thời hiệu xử lý. Do vậy, có thể coi đây là trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần.
    3. Những vất cập từ pháp luật và hướng xử lý trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần
    Về trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần, hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính đang có những quy định không thống nhất trong chế tài xử lý, cụ thể là:
    - Điểm d, Khoản 1, Điều 3 của Luật quy định việc xử phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính.
    - Điểm b, Khoản 1, Điều 10 của Luật quy định vi phạm hành chính nhiều lần chỉ là tình tiết tăng nặng. Điều này có nghĩa là, nếu đối tượng thực hiện hành vi vi phạm hành chính nhiều lần thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính đối với 1 hành vi và áp dụng tình tiết tăng nặng vi phạm hành chính nhiều lần.
    Như vậy, Điểm d, Khoản 1, Điều 3 và Điểm b, Khoản 1, Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đều quy định chế tài xử lý đối với trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần. Nhưng việc áp dụng từng chế tài sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý khác nhau.
    Đối chiếu với vụ việc được nêu thấy rằng, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đang áp dụng Điểm d, Khoản 1, Điều 3 của Luật Xử lý vi phạm hành chính để xử phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính của doanh nghiệp (đồng thời, mỗi hành vi bị xử phạt đều bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng vi phạm hành chính nhiều lần).
    Trong bối cảnh các quy định pháp luật chưa có sự thống nhất như đã nêu trên, trường hợp này, nên áp dụng Điểm b, Khoản 1, Điều 10 của Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm nguyên tắc có lợi cho đương sự trong áp dụng pháp luật.
    Theo, chỉ có một phần của chúng tôi có văn bản và tài năng trong khi có văn bản vi vi.
    Mạnh mẽ, dài, nghiêm túc, tuyệt vời, hài hước, vui vẻ, thoải mái, vui vẻ, thoải mái, vui vẻ, thoải mái. Nam lý vi khi bị phạt

     

    Phạm Quốc Bằng
    Bài Viết, trao đổi, Áo áo, mang

  • Khi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính và bị tố giác, phát hiện, thì sẽ bị người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt hành chính. Ngoài ra, người vi phạm còn có thể bị buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính của mình gây ra.
    Các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính được quy định tại Chương I Luật xử lý vi phạm hành chính (năm 2012) liên quan đến thẩm quyền và mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn và quy định chi tiết thực hiện luật này. Xin giới thiệu cùng các bạn nội dung quy định này với mục tiêu hỗ trợ hoạt động nghiệp vụ và tuyên truyền pháp luật.
    CHƯƠNG I: CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
    Mục 1: CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT
    Điều 21. Các hình thức xử phạt và nguyên tắc áp dụng
    Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm 5 hình thức sau đây:
    a) Cảnh cáo;
    b) Phạt tiền;
    c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
    d) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính);
    đ) Trục xuất.
    2. Hình thức xử phạt quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính. Hình thức xử phạt quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này có thể được quy định là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính.
    3. Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính; có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung quy định tại khoản 1 Điều này. Hình thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính.
    Ví dụ: Ông A là tài xế xe tải chở hàng quá tải được xác định là vi phạm hành chính. Ngoài hình thức xử phạt chính là thu giữ bằng lái 30 ngày, cơ quan có thẩm quyền cũng có thể áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu số hàng trên xe.
    Giải thích, chi tiết và hướng hướng dẫn áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính được nêu trong các điều luật dưới đây.
    Điều 22. Cảnh cáo
    Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.
    Điều 23. Phạt tiền
    1. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật này.
    Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật tự, an toàn xã hội.
    2. Chính phủ quy định khung tiền phạt hoặc mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm hành chính cụ thể theo một trong các phương thức sau đây, nhưng khung tiền phạt cao nhất không vượt quá mức tiền phạt tối đa quy định tại Điều 24 của Luật này:
    a) Xác định số tiền phạt tối thiểu, tối đa;
    b) Xác định số lần, tỷ lệ phần trăm của giá trị, số lượng hàng hóa, tang vật vi phạm, đối tượng bị vi phạm hoặc doanh thu, số lợi thu được từ vi phạm hành chính.
    3. Căn cứ vào hành vi, khung tiền phạt hoặc mức tiền phạt được quy định tại nghị định của Chính phủ và yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội đặc thù của địa phương, Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương quyết định khung tiền phạt hoặc mức tiền phạt cụ thể đối với hành vi vi phạm trong các lĩnh vực quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều này.
    4. Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.
    Điều 25. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
    1. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
    2. Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong các trường hợp sau:
    a) Đình chỉ một phần hoạt động gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép;
    b) Đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc hoạt động khác mà theo quy định của pháp luật không phải có giấy phép và hoạt động đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường và trật tự, an toàn xã hội.
    3. Thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, thời hạn đình chỉ hoạt động quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này từ 01 tháng đến 24 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành. Người có thẩm quyền xử phạt giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
    Điều 26. Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức.
    Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu được thực hiện theo quy định tại Điều 82 của Luật này.
    Điều 27. Trục xuất
    1. Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    2. Chính phủ quy định chi tiết việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất.
    Mục 2: CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
    Ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định ở trên, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, đối tượng vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả (do hành vi vi phạm hành chính gây ra) như dưới đây.
    Điều 28. Các biện pháp khắc phục hậu quả và nguyên tắc áp dụng
    1. Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
    a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
    b) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
    c) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;
    d) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
    đ) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;
    e) Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn;
    g) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
    h) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng;
    i) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật;
    k) Các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định.
    2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả:
    a) Đối với mỗi vi phạm hành chính, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều này;
    b) Biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng độc lập trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 65 của Luật này.
    Điều 29. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính của mình gây ra; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 30. Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 31. Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải thực hiện biện pháp để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 32. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật.
    Biện pháp khắc phục hậu quả này cũng được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 33. Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hoá phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 34. Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn đã được công bố, đưa tin trên chính phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử đã công bố, đưa tin; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 35. Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm
    Cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa hoặc sử dụng phương tiện kinh doanh, vật phẩm chứa yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm thì phải loại bỏ các yếu tố vi phạm đó; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 36. Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng
    Cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng đã đăng ký hoặc công bố và hàng hóa khác không bảo đảm chất lượng, điều kiện lưu thông thì phải thu hồi các sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    Điều 37. Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật
    Cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp lại số lợi bất hợp pháp là tiền, tài sản, giấy tờ và vật có giá có được từ vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức đó đã thực hiện để sung vào ngân sách nhà nước hoặc hoàn trả cho đối tượng bị chiếm đoạt; phải nộp lại số tiền bằng với giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện đó đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện. (Theo Luật xử lý vi phạm hành chính 2012)

     

    Phạm Quốc Bằng
    Bài Viết, trao đổi, mặc quần áo, mang đến


     

  • I. Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trong xử phạt vi phạm hành chính

    1. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;

    2. Khi xác minh các tình tiết của vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.

    3. Tình tiết giảm nhẹ là một trong những căn cứ để áp dụng biện pháp xử phạt cảnh cáo.

    4. Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng là một trong những căn cứ quan trọng trong việc áp dụng biện pháp xử phạt tiền: Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.

    II. Tình tiết giảm nhẹ

    1. Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;

    2. Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính;

    3. Vi phạm hành chính trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra; vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

    4. Vi phạm hành chính do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần;

    5. Người vi phạm hành chính là phụ nữ mang thai, người già yếu, người có bệnh hoặc khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    6. Vi phạm hành chính vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;

    7. Vi phạm hành chính do trình độ lạc hậu;

    8. Những tình tiết giảm nhẹ khác do Chính phủ quy định.

    III. Tình tiết tăng nặng

    1. Những tình tiết sau đây là tình tiết tăng nặng:

    a) Vi phạm hành chính có tổ chức: là trường hợp cá nhân, tổ chức câu kết với cá nhân, tổ chức khác để cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính;

    b) Vi phạm hành chính nhiều lần: là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý.

    Tái phạm: là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định này mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử lý;

    c) Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm hành chính;

    d) Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để vi phạm hành chính;

    đ) Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành công vụ; vi phạm hành chính có tính chất côn đồ;

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm hành chính;

    g) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm hành chính;

    h) Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính;

    i) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;

    k) Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính;

    l) Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn;

    m) Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.

    2. Tình tiết đã được quy định là hành vi vi phạm hành chính thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

    Phạm Quốc Sử

    Bài viết trao đổi nghiệp vụ, mang tính tuyên truyền, phổ biến pháp luật

     

  • Trong khoa học pháp lý, dựa vào các dấu hiệu cấu thành, có thể dễ dàng phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tế, đối với một số hành vi cụ thể, ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm rất mong manh, khó xác định. Nếu không giải quyết đúng đắn vấn đề này thì rất dễ dẫn đến trường hợp hình sự hóa hành chính hay hành chính hóa hình sự.
    Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ các tiêu chí phân biệt và xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, cụ thể như sau:
    1. Về khái niệm
    Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC) định nghĩa vi phạm hành chính: “là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
    Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) định nghĩa tội phạm: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
    2. Về các dấu hiệu cấu thành
    Thứ nhất, mặt khách quan:
    Xét về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi: Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm hình sự (đây là dấu hiệu cơ bản nhất). Các căn cứ đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính và tội phạm bao gồm:
    - Về mức độ thiệt hại: Đối với một số loại tội phạm, Bộ luật hình sự quy định mức độ gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Mức độ gây thiệt hại biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như: Giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng hóa vi phạm, mức độ thương tật… Căn cứ vào các dấu hiệu này, có thể phân biệt được ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm. Ví dụ: Đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nếu tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng (ít nghiêm trọng hơn) thì bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 15 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
    Qua ví dụ trên có thể thấy, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản (có giá trị dưới 2.000.000 đồng) xâm hại trật tự quản lý trật tự quản lý hành chính nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội do tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này là không đáng kể nên chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong khi đó, đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản (có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên) do mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là đáng kể nên các nhà làm luật đặt ra yêu cầu phải “hình sự hoá” đối với hành vi vi phạm này.
    - Về số lần vi phạm: Nhiều trường hợp bị coi là tội phạm khi đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi đã thực hiện (hoặc các hành vi khác có tính chất tương tự). Hiện nay, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có 75 tội có cấu thành “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Trong những trường hợp này, nếu chỉ đánh giá về mặt hành vi thì khó xác định một cách chính xác đó là tội phạm hay vi phạm hành chính mà phải căn cứ vào dấu hiệu số lần thực hiện hành vi vi phạm.
    Trở lại với ví dụ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên, theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản quy định tại các điều 168 (tội cướp tài sản), 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (tội cưỡng đoạt tài sản)… của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phụ thuộc vào trị giá tài sản bị chiếm đoạt.
    - Về công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm: Đây cũng được coi là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm.
    Tiếp tục với ví dụ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên: Theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng nếu thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn xảo quyệt” thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà không phụ thuộc vào trị giá tài sản bị chiếm đoạt.
    Thứ hai, mặt chủ quan:
    Do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của từng trường hợp lỗi là khác nhau, hơn nữa, tội phạm là loại vi phạm pháp luật bị áp dụng chế tài nặng nhất nên tại Điều 10 và Điều 11 Bộ luật hình sự quy định 04 hình thức lỗi của chủ thể để giúp giải quyết chính xác các vụ án hình sự:
    - Cố ý trực tiếp là trường hợp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
    - Cố ý gián tiếp là trường hợp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
    - Vô ý vì quá tự tin là trường hợp: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
    - Vô ý do cẩu thả là trường hợp: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
    Vi phạm hành chính chỉ quy định hai hình thức lỗi là cố ý và vô ý, không có sự phân biệt cố ý trực tiếp hay gián tiếp, vô ý vì quá tự tin hay do cẩu thả.
    Thứ ba, chủ thể:
    Chủ thể thực hiện vi phạm hành chính bao gồm cá nhân và tổ chức; chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là cá nhân và pháp nhân thương mại.
    Thứ tư, khách thể:
    Có ý kiến cho rằng, khách thể của vi phạm hành chính và tội phạm được mô tả như hai vòng tròn giao nhau, dù phạm vi giao nhau là khá lớn nhưng vẫn tồn tại những quan hệ xã hội chỉ có thể là vi phạm hành chính, dù có vi phạm nhiều lần cũng không chuyển hóa thành tội phạm (ví dụ, hành vi tiểu tiện nơi công cộng, điều khiển mô tô, xe máy không đội mũ bảo hiểm…), có những hành vi vi phạm pháp luật chỉ có thể là tội phạm chứ không bao giờ là vi phạm hành chính, dù có gây hậu quả hay chưa (ví dụ, hành vi giết người, hiếp dâm…).
    3. Về căn cứ pháp lý
    Theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hiện hành, vi phạm hành chính được quy định trong luật, các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính; tội phạm hình sự chỉ được quy định trong Bộ luật hình sự do Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành. Trong trường hợp một hành vi vừa được quy định trong Bộ luật hình sự, vừa được quy định trong Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính thì cần đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi để khẳng định hành vi đó là tội phạm hay vi phạm hành chính.
    Cần lưu ý rằng, việc căn cứ vào loại văn bản và cơ quan ban hành văn bản để xác định vi phạm hành chính hay tội phạm không hoàn toàn giống nhau ở các thời kỳ lịch sử. Chẳng hạn như, thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám, tội phạm hình sự được quy định trong các Sắc lệnh do Chủ tịch Chính phủ ban hành, ví dụ: Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc biển thủ công quỹ hay của công dân được quy định trong Sắc lệnh số 223 ngày 27/11/1946.
    4. Về chế tài (biện pháp) xử lý
    Vi phạm hành chính bị xử lý bằng các chế tài hành chính; tội phạm hình sự bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Do vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội phạm nên các hình thức xử phạt hành chính cũng ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt áp dụng đối với tội phạm.
    Bên cạnh đó, do tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nghiêm trọng hơn nên theo quy định của pháp luật, án tích của một người bị ghi vào lý lịch tư pháp của người đó. Đối với vi phạm hành chính, do tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn nên việc xử phạt vi phạm hành chính không bị ghi vào lý lịch tư pháp của người đó.
    5. Về chủ thể có thẩm quyền xử lý
    Do đặc thù của vi phạm hành chính diễn ra phổ biến, trên khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội nên chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và xử lý tội phạm cũng rất khác nhau, thể hiện ở chỗ việc xử lý người phạm tội được giao cho một cơ quan duy nhất là Tòa án, còn việc xử lý đối tượng vi phạm hành chính, theo quy định của pháp luật hiện hành, được giao cho rất nhiều cơ quan và người có thẩm quyền ở các ngành, các cấp, trong đó chủ yếu là các chức danh thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Cũng có trường hợp, việc xử phạt vi phạm hành chính được giao cho chức danh thuộc cơ quan khác, ngoài cơ quan quản lý hành chính nhà nước, ví dụ: Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Giám đốc bảo hiểm xã hội cấp tỉnh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 121 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 (Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ). Việc xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh thuộc Tòa án chỉ được áp dụng trong phạm vi rất hẹp. Ví dụ: Khoản 5 Điều 72 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015) có quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh thuộc Tòa án đối với một số vi phạm hành chính trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
    6. Về trình tự, thủ tục xử lý
    Đối với tội phạm, việc xem xét, áp dụng hình phạt do Tòa án thực hiện theo thủ tục tố tụng tư pháp. Đối với vi phạm hành chính, việc xem xét, quyết định chế tài xử phạt do 01 chủ thể là người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt áp dụng. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính phần nhiều mang tính quyền lực đơn phương từ phía cơ quan hành chính nhà nước, dù pháp luật có quy định quyền khiếu nại, khởi kiện của chủ thể bị xử phạt. Điều này xuất phát từ chỗ các chế tài xử phạt vi phạm hành chính có mức độ nhẹ hơn nhiều so với các chế tài hình sự. Chế tài hành chính chủ yếu tác động đến tài sản, vật chất, tinh thần của người vi phạm (cảnh cáo, phạt tiền…), trong khi đó, chế tài hình sự phần nhiều bao gồm những hình phạt liên quan đến tước quyền tự do của người phạm tội.
    Từ các phân tích nêu trên, có thể thấy, vi phạm hành chính và tội phạm đều là những hành vi vi phạm pháp luật. Đây là hai loại vi phạm pháp luật phổ biến, có cùng bản chất là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhưng khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm. Xuất phát từ sự khác nhau cơ bản này (mức độ nguy hiểm của hành vi) mà pháp luật quy định những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau để đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính và tội phạm: Trách nhiệm hành chính đặt ra đối với chủ thể vi phạm hành chính; trách nhiệm hình sự đặt ra đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Việc áp dụng những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau, theo đó, hình thức xử phạt áp dụng đối với vi phạm hành chính ít tính nghiêm khắc hơn so với hình phạt áp dụng đối với tội phạm. Do vậy, việc phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động áp dụng pháp luật, nó chính là cơ sở để áp dụng các loại trách nhiệm pháp lý khác nhau nhằm bảo đảm đấu tranh có hiệu quả đối với vi phạm hành chính và tội phạm, qua đó góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan./.

     

    Phạm Quốc Sử
    Bài viết trao đổi nghiệp vụ, mang tính tuyên truyền, phổ biến pháp luật


     

  • Nghe qua thì xử phạt vi phạm hành chính và xử lý hành chính có vẻ rất giống nhau khiến không ít người lầm tưởng chúng là một hoặc có sự nhầm tưởng không xác định dược giới hạn của nó. Xin Tham khảo nội dung mình so sánh theo phương thức mãnh ghép dưới đây để phân biệt rõ ràng bản chất của 2 thuật ngữ này.

    Tiêu chí

    Xử phạt hành chính

    Xử lý hành chính

    Khái niệm

    Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

    (khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012)

    Xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

    Ngoài ra, còn có biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính là biện pháp mang tính giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm hành chính hoặc biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở và biện pháp quản lý tại gia đình

    (khoản 3, khoản 4 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    Đối tượng áp dụng

    Cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước

    (khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    Chỉ áp dụng với cá nhân trong nước

    Các biện pháp xử lý hành chính không áp dụng đối với người nước ngoài

    (khoản 2 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

     

    Hình thức xử phạt/xử lý

    Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính gồm:

    - Cảnh cáo;

    - Phạt tiền;

    - Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;

    - Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

    - Trục xuất.

    Lưu ý:

    - Hình thức xử phạt cảnh cáo và phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính;

    - Các hình thức xử phạt còn lại có thể là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính.

    (theo Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    Xử lý vi phạm hành chính gồm các biện pháp:

    - Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

    - Đưa vào trường giáo dưỡng;

    - Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc;

    - Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

     

    Nguyên tắc áp dụng

    - Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;

    - Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.

    - Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.

    - Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm…

    (khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    - Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng quy định;

    - Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;

    - Việc xử lý vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;

    - Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính

    (khoản 2 Điều 3 Luật này)

     

    Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ một số trường hợp đặc biệt (điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 03 tháng - 01 năm kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm tùy từng trường hợp cụ thể:;

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng -  01 năm kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm tùy từng trường hợp sẽ là;

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 01 năm, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm;

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm.

    Tiêu chí

    Xử phạt hành chính

    Xử lý hành chính

    Khái niệm

    Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

    (khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012)

    Xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

    Ngoài ra, còn có biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính là biện pháp mang tính giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm hành chính hoặc biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở và biện pháp quản lý tại gia đình

    (khoản 3, khoản 4 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    Đối tượng áp dụng

    Cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước

    (khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    Chỉ áp dụng với cá nhân trong nước

    Các biện pháp xử lý hành chính không áp dụng đối với người nước ngoài

    (khoản 2 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

     

    Hình thức xử phạt/xử lý

    Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính gồm:

    - Cảnh cáo;

    - Phạt tiền;

    - Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;

    - Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

    - Trục xuất.

    Lưu ý:

    - Hình thức xử phạt cảnh cáo và phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính;

    - Các hình thức xử phạt còn lại có thể là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính.

    (theo Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    Xử lý vi phạm hành chính gồm các biện pháp:

    - Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

    - Đưa vào trường giáo dưỡng;

    - Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc;

    - Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

     

    Nguyên tắc áp dụng

    - Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;

    - Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.

    - Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.

    - Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm…

    (khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    - Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng quy định;

    - Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;

    - Việc xử lý vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;

    - Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính

    (khoản 2 Điều 3 Luật này)

     

    Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ một số trường hợp đặc biệt (điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính)

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 03 tháng - 01 năm kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm tùy từng trường hợp cụ thể:;

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng -  01 năm kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm tùy từng trường hợp sẽ là;

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 01 năm, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm;

    - Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm.


    Qua đây có thể thấy, xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Xử phạt vi phạm hành chính và xử lý hành chính là 2 mảnh ghép của xử lý vi phạm hành chính./.


    Phạm Quốc Sử
    Bài viết trao đổi nghiệp vụ, mang tính tuyên truyền, phổ biến pháp luật


     

  • Hỏi: Hiện nay tình hình dịch Covid -19 đang diễn biến phức tạp, hành vi tăng giá bán khẩu trang, thiết bị vật tư y tế (nước rửa tay khô, cồn...) sẽ bị xử lý như thế nào? Ai là người có thẩm quyền xử phạt?

    Trả lời:

    1. Về hình thức, mức xử lý

    Thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn; Nghị định số 49/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 109/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn. Cụ thể:

    - Đối với hành vi không niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm bán hoặc niêm yết giá không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng: Theo Khoản 5, Điều 1, Nghị định số 49/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 109/2013/NĐ-CP sẽ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Vi phạm nhiều lần, tái phạm sẽ bị phạt từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

    - Đối với hành vi bán cao hơn giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân định giá không thuộc Danh mục bình ổn giá, hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện: Theo Khoản 3, Điều 12 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Ngoài ra, hành vi này còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc trả lại cho khách hàng số tiền đã thu cao hơn giá niêm yết, trường hợp không xác định được khách hàng để trả lại thì nộp vào ngân sách nhà nước.

    - Ngoài ra, Điều 17, Nghị định số 109/2013/NĐ-CP còn quy định hình thức xử phạt nặng hơn đối với hành vi lợi dụng dịch bệnh để định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý. Cụ thể, đối với hành vi này sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp vào ngân sách nhà nước số tiền thu lợi do định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý.

    2. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

     Theo quy định Điều 42 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP; Khoản 11, Điều 1 Nghị định số 49/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 109/2013/NĐ-CP thì những người sau đây có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi liên quan đến niêm yết giá, định giá:

    - Các chức danh thuộc lực lượng quản lý thị trường: Đội trưởng đội quản lý thị trường; Cục trưởng cục quản lý thị trường; Trưởng phòng chống buôn lậu, Trưởng phòng chống hàng giả, Trưởng phòng kiểm soát chất lượng hàng hóa thuộc Tổng cục Quản lý thị trường (Bộ Công Thương);

    - Chánh Thanh tra Sở Tài chính;

    - Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện;

    - Thanh tra viên, Chánh Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ và các chức danh tương đương có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính về giá thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ;

    - Trưởng đoàn thanh tra liên ngành về giá;

    - Chánh Thanh tra Bộ Tài chính.

    Riêng Chủ tịch UBND cấp xã chỉ được xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi về niêm yết giá quy định tại Điều 12, Nghị định số 109/2013/NĐ-CP của Chính phủ./.

     

    Thành Đạt

     

  • I. Các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính và nguyên tắc áp dụng
    1. Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
    a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
    b) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
    c) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;
    d) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật  phẩm, phương tiện;
    đ) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;
    e) Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn;
    g) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
    h) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng;
    i) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật;
    k) Các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định.
    2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả:
    a) Đối với mỗi vi phạm hành chính, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều này;
    b) Biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng độc lập trong trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
    II. Các biện pháp cụ thể
    1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính của mình gây ra; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    2. Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    3. Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải thực hiện biện pháp để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    4. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện
    a) Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật.
    b) Biện pháp khắc phục hậu quả này cũng được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    5. Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi  trường văn hóa phẩm có nội dung độc hại Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hoá phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    6. Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn
    Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn đã được công bố, đưa tin trên chính phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử đã công bố, đưa tin; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    7. Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm
    Cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa hoặc sử dụng phương tiện kinh doanh, vật phẩm chứa yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm thì phải loại bỏ các yếu tố vi phạm đó; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    8. Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng
    Cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng đã đăng ký hoặc công bố và hàng hóa khác không bảo đảm chất lượng, điều kiện lưu thông thì phải thu hồi các sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.
    9. Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật Cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp lại số lợi bất hợp pháp là tiền, tài sản, giấy tờ và vật có giá có được từ vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức đó đã thực hiện để sung vào ngân sách nhà nước hoặc hoàn trả cho đối tượng bị chiếm đoạt; phải nộp lại số tiền bằng với giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện đó đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện.

     

    Phạm Quốc Sử
    Bài viết trao đổi nghiệp vụ, mang tính tuyên truyền, phổ biến pháp luật


     

  • Trang đầu 12 Trang cuối

Cảnh báo

Cảnh báo

Không tìm thấy nội dung cho: ‭sotuphaplibrary/sotuphapsite/tinvan‭

 
start portlet menu bar

Hình ảnh hoạt động;hinhanhhoatdong

Display portlet menu
end portlet menu bar